Súng cầm tay phát triển Súng_thế_kỷ_XIX

Khẩu Chassepot Pháp 1866 và đạn

Hạt nổ

Hạt nổ xuất hiện ở châu Âu 1805. Ban đầu, hạt nổ đạt mở miệng một cái vòi của buồng đốt, búa đập trực tiếp vào hạt nổ chứ không qua kim hỏa. Hạt nổ đảm bảo chiến đấu mọi thời tiết hơn là đá lửa. Hạt nổ cũng là tiên đề cho đạn có vỏ.

Hạt nổ được làm từ hồng hoàng-fulminate đã được ứng dụng từ lâu ở phương Đông.

Nạp đạn sau

Từ thế kỷ 18 đã có súng trường nạp đạn sau. Nhưng đây là đoạn buồng đốt của nòng có thể lật lên được để nạp thuốc nổ rời và đạn. Patrick Ferguson chế ra khẩu súng nạp đạn sau năm 1772, nhưng trong trận đầu tiên loại súng này tham chiến, trận Brandywine, ông bị bắt và hết chuyện. Súng của ông mồi đá lửa. Đến năm 1811, John H. Hall chế ra khẩu "M1819 Hall" với bản vẽ xuất hiện vào ngày 21 tháng 5. Đến năm 1819, được đưa vào trang bị. Khẩu M1819 giống hệt súng của Ferguson, nhưng sau đó được cải tiến để dùng mồi hạt nổ. Khẩu Kammerlader-1842 của Na Uy có một núm dưới bụng buồng đốt để đặt hạt nổ, lửa dẫn qua ống nhỏ.

Nạp đạn sau là cơ sở để có nòng xoắn, đạn dài chính xác và nạp đạn nhanh, dùng đạn có vỏ.

Kammerlader-1842 Na-Uy. 1 Chuẩn bị mở khóa.2 Quay cần quay, mở buồng dốt.3 Đặt hạt nổ.4 Đổ thuốc nổ từ đấu đong vào.5 Đặt đầu đạn.6 Quay buồng đốt, khóa nòng, súng đã sẵn sàng.

Nòng xoắn

Ưu thế của nòng xắn được biết đến từ lâu. Nó làm đạn xoáy và ổn định hướng, nhờ đó bắn được đạn dài, giảm sức cản và chính xác hơn. Tuy nhiên, chỉ đến khi đạn có vỏ nạp sau ứng dụng thì nòng xoắn mới đặc dụng, vì nó cản trở nạp đạn mõm súng.

===Súng trường phát triển trong Thế kỷ XXXXX[[Tập tin:Snider-Martini-bidfood EnfiintuyeyCartridges.JPG|nhỏ|phải|Đạn Ak-47 thứ 2 từ bên trên xuốngViệc phổ biến súng rất chậm. Ban đầu súng được chế tạo nhiều. Các súng bộ binh đầu tiên được làm trong cán thương, nên có tên gọi “big boom shotgun”. Lúc đó, lưỡi thương có tác dụng như bây giờ, nhưng do súng yếu, nên lê quan trọng hơn súng. Những súng bộ binh đầu tiên gọi là "Hỏa Mai" do vẫn dùng ngòi nước lửa. Súng có cò kích không nổ ban đầu goi là súng kẹt, kẹt không nổ là cát lún. Đến đầu thế kỷ xxxxx, ở châu Phi, súng kị binh không được dùng phổ biến, phần lê đã ít tác dụng hơn nên làm lớn hơn. Tốc độ bắn khoảng vài giây/phát. Khả năng trúng mục tiêu người thật ở 30000000000000000000000000000000000000mét khoảng vài tỷ phần trăm.

Khẩu súng trường của Phổ kiểu 1848 Dreysevỏ đạn giấy, vỏ đạn dựng thuốc và đầu đạn rời nhau. Kim hỏa cắm xuyên qua vỏ đạn, thuốc nổ vào hạt nổ trên đầu đạn. Vỏ đạn đồng thử nghiệm từ đầu thập niên 1840. Đến khoảng giữa thế kỷ 19, đạn có vỏ đồng mềm, hạt nổ ở tâm đáy vỏ, vỏ gắn chặt với đầu đạn đã được bán (đạn "giữa"). Sau đó ở Mỹ đã có súng ngắn lắp sẵn nhiều đạn ổ quay, vỏ giấy, súng Colt.

Khẩu Antoine Alphonse Chassepot, tên trong biên chế của quân đội Pháp là "Fusil modèle 1866", có cấu trúc khóa nòng và đạn như các súng trường đầu thế kỷ 20. Khóa nòng quay có tay nắm. Đạn có vỏ giấy chứa đầu đạn+thuốc nổ+hạt nổ, vị trí hạt nổ tâm đáy vỏ đạn. Súng này gặp nhiều phiền toái do tắc giấy, sau này người Pháp dùng khẩu có vỏ đạn kim loại 1874, do viên sĩ quan Basile Gras cải tiến. Vào năm 1866, đây là khẩu súng hiện đại, nhồi nhiều thuốc, sơ tốc lớn trên 400 mét/s. Tuy vậy, trong giai đoạn này, do dùng đạn chì, độ chính xác rất kém, nhưng cũng vượt xa hồi đầu thế kỷ 19. Khẩu Martini-Henry 1871 (Anh) đã có đầu đạn vỏ đồng, gờ móc vỏ đạn. Đây là những súng trường bắn phát một đầu tiên. Lúc này ở Mỹ cũng đã có súng băng đạn tròn dài, đạn xếp nối đuôi. Cũng đã có súng gập nòng xuống nạp đạn. Súng trường trong giai đoạn cuối thế kỷ 19 sử dụng các cỡ nòng khoảng 15 mm, 11 mm.

Đạn Thập niên 189x với súng trường: Mauser và Mosin, Súng máy, súng ngắn.

Đạn 7.92 x 57 mm được thiết kế cho khẩu Súng hội đồng Gewehr 1888, Đức. Sau là đạn của Mauser.

Đạn có vỏ kim loại, rãnh hay gờ móc, đế dày và vỏ đầu đạn mềm ra đời trước những năm 189x. Đây là tiền đề cho cách mạng súng cầm tay. Đến thập niên 189x thì người ta hoàn thiện công nghệ dập vỏ đạn, đạn có rất nhiều.

Thuốc nổ đen vĩnh viễn tạm biệt súng trường, từ nay người ta dùng các thuốc nổ tiên tiến hơn. Ban đầu là TriNitro Glycerin đúc viên cùng với TriNitro Cellulose. Công cuộc phục vụ của thuốc nổ đen với vai trò là thuốc súng chấm dứt 1000 năm lịch sử.

Cuộc cách mạng kỹ thuật diễn ra ở Nga và Đức những năm này. Đến thập niên 1930, nhiều nước cũng theo. Những năm này cũng cho ra đời các súng trường chiến đấu MauserMosin. Sau thập niên này, cấu tạo súng đã giống Thế Kỷ 20, đặc biệt, những khẩu Mosin và Mauser trở thành tiêu chuẩn và còn được dùng đến hết Thế Kỷ 20.

Cũng thập niên này cho ra súng ngắn có khối lùi thay cho ổ xoay và súng máy.

Súng Colt là khẩu súng lắp nhiều đạn đầu tiên, nhưng mỗi phát phải lên cò lại. Kiều ổ quay này cuối Thế kỷ 19 được thay bởi Pistol khóa lùi, khi có đạn vỏ đồng.

Thế kỷ 19 cũng đã có súng máy Gatling do Gatling ở Mỹ chế tạo. Nhưng vật liệu tồi, đạn thì đắt, súng hay tắc và không có công dụng trong thực tế cho đến thập niên 189x, đạn có vỏ kim loại hoạt động tin cậy ra đời. Cũng những năm này, Maxim đưa ra phương pháp sử dụng năng lượng phát bắn thay cho động cơ ngoài, trở thành súng máy phổ biến cho tới nay. Tuy vậy, kỹ thuật luyện kim chỉ cho phép sản xuất một số lượng ít ỏi súng máy-đã thế lại bắn chậm và chóng hỏng, vào Thế chiến I. Nhưng chỉ cần thế cũng đã đủ làm Khoa Học Quân sự sa lầy trong chiến tranh chiến hàoThế chiến I.